tôi bơ vơ hoài trở về
- Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là tiếng nói của một cái tôi bơ vơ, cô đơn luôn khao khát hướng về cuộc đời, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện cao nhất
Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Nếu đây là lần đầu tiên bạn tham gia diển đàn, xin mời bạn đăng ký làm thành viên với chúng tôi nhá Hoặc đăng nhập để viết bài trên diển đàn..:: Xin cám ơn bạn đả truy cập diển đàn ::.. Mọi thông tin xin liên hệ: nhoxkjo@yahoo.com.vn - Tel: 01886.668.009
Phần 4: Lưới Tình. Hôm nay là ngày nhập học đầu tiên , tôi nhập học nửa chừng dãy bàn bên phía nam không có chỗ nên cô giáo Phương chủ nhiệm lớp đành để tôi ngồi một mình bên dãy con gái . Cô Phương biểu tôi đứng lên tự giới thiệu tên tuổi và từ trường nào
Dường như thơ Võ Văn Trực được chắt lọc cùng với hình ảnh mùa thu. Một sắc thu đầy ẩn ức và trăn trở. Ông đã tâm sự: "Có mùa thu thôn dã đến cầm tay/ Dìu tôi bước ven bờ sông yên tĩnh" (Triền sông sau mùa lũ). Có thể nói nhà thơ Võ Văn Trực đã dồn nén tâm
materi matematika kelas 9 semester 1 pdf. Song Title Artist Time 01Mùa Thu Không Trở LạiLê Hiếu413 02Trên Đỉnh Mùa ĐôngLê Hiếu456 03Gọi Tên Bốn MùaLê Hiếu434 04Nỗi NiềmLê Hiếu435 05Tôi Với Trời Bơ VơLê Hiếu506 06Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế ThôiLê Hiếu323 07Nỗi Lòng Người ĐiLê Hiếu426 08Mùa Đông Của AnhLê Hiếu504 09Giọt Nước Mắt NgàLê Hiếu444 Chiều 20/9, Lê Hiếu phát hành album mới tại TP HCM với các ca khúc nổi tiếng của Trịnh Công Sơn, Anh Bằng, Tùng Giang, Ngô Thụy Miên… “Tôi rất vui khi nhạc sĩ Đức Trí, Hoài Sa nhận lời phối cho album. Các anh vốn nổi tiếng làm nhạc hay, tỉ mỉ. Chúng tôi tốn thời gian thực hiện để sản phẩm được chỉn chu nhất khi ra mắt“, Lê Hiếu nói. Dù CD được hoàn thành từ lâu, anh vẫn giữ lại để nghiền ngẫm về chất nhạc, quan sát thị trường chung trước khi giới thiệu đến mọi người. Album gồm những bản nhạc tình tiêu biểu từ thập niên 1960 đến 1980 như Nỗi lòng người đi, Mùa thu không trở lại, Mùa đông của anh, Nỗi niềm, Tôi với trời bơ vơ… Lê Hiếu chia sẻ anh thực hiện album mới với tâm thế thong dong, mỗi khi tìm được tác phẩm hợp ý là bắt tay vào bàn bạc cùng Đức Trí, Hoài Sa cách phối. Trong đó, bài Mùa thu không trở lại tốn nhiều thời gian của anh, mất một năm để hoàn thành. Lúc đầu, ca sĩ thu ở Music Face của Đức Trí, sau đó không dùng mà chuyển sang nhạc viện TP HCM để thu với dàn dây và piano. Đây cũng là bài hát anh thấy khó thể hiện nhất trong CD bởi quãng rộng và đòi hỏi chiều sâu cảm xúc. “Tôi phải nghe nhiều bản thu của các ca sĩ để tìm lối hát riêng“, Lê Hiếu nói. Lê Hiếu tâm sự không muốn chạy theo dòng nhạc thị trường mà thấy ở giai đoạn này, anh đủ “độ chín” để thể hiện dòng nhạc xưa bởi luôn mang hoài niệm, rung động. Anh từng đưa một số bản nhạc xưa vào CD Tình khúc cho em hay Dạ khúc dương cầm và được phản hồi tích cực. Download via DIRECT LINKS
Beat karaoke QUÊ TÔI Sáng tác Hoài Trang Quê tôi sinh ra biết bao là thương nhớ Có lá xanh non bao quanh bờ ao xoáy mòn Từ sau ruộng lúa bao la xa tít mờ xa Có tiếng chim ca ru tôi hoà nhịp tuổi thơ Bao năm nơi đây sống trong tình thương xóm Những lúc mưa to tranh nhau đi bắt cá đồng Mẹ tôi lúi cúi hái rau cho bữa cơm chiều Bữa cơm cá canh ôi thôi vừa ngọt vừa thơm ĐK Ngày đó quê tôi nghèo lắm ai ơi Người dân quê tôi thay trâu làm nên lúa mầu Tuổi tuổi mới lớn với bao điều mong ước Ước cho quê hương một ngày rạng rỡ tương lai Nay tôi đi xa biết bao là thay đổi Thấy chút bơ vơ xa xôi khi tôi trở về Nhìn đàn em bé đang chơi ngơ ngác nhìn tôi Bỗng thấy chơi vơi như lần đến chốn thành đô Xem thêm Karaoke Tình yêu còn mãi TÌNH YÊU CÒN MÃI Sáng tác Hoài Trang Tình mình tựa như một dòng sông …
Những bài văn mẫu hay lớp 11Một thời đại trong thi ca vừa được tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca lớp 11I. Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caDàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2II. Văn mẫu Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caPhân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 3I. Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caDàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 11. Mở bàiDẫn dắt và giới thiệu vấn đề nghị luận."Một thời đại trong thi ca" là bài tiểu luận mở đầu cuốn sách "thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh xuất bản năm 1942. Qua công trình nghiên cứu phê bình công phu này với cách nhìn khoa học, tiến bộ; cách viết tinh tế, tài hoa; cách lập luận sắc sảo; tác giả đã giúp người đọc hiểu được tinh thần của thơ Thân bàiTheo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới nằm trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của Thơ mới đối lập với "cái ta" của thơ cũ- cả mặt tích cực và mặt bi kịch của "Cái tôi" trong Thơ mới"Cái tôi" là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, éo buộc nên cái bản ngã ấy không được bộc lộ, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của "cái ta- đạo lí" chung của thời đại ấy. Đó là thơ phi "cái tôi" ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. "Cái tôi"- đó chính là "khát vọng được thành thực" như Hoài Thanh đã nói, là sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã đây, cái tôi có được "cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê" và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ Mặt tích cực của "cái tôi" trong Thơ mớiNếu xã hội Việt Nam từ xưa không có các nhân. Chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình thì cái tôi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất thơ cũ mang cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả thì cái tôi Thơ mới mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này Quan niệm cá nhân sự ý thức về bản thân.Nếu các nhà văn, nhà thơ cũ không một lần nào dám dùng chữ "tôi" để nói chuyện với mình hay với tất cả mọi người, không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người thì cái tôi, vố cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó chịu nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người Mặt bi kịch của "cái tôi" trong Thơ mới"Cái tôi" của các nhà Thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đã đem đến cho tâm hồn hộ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Bởi họ là những thi nhân mất nước, đang sống trong cuộc đời mỏi mòn, tù túng lúc bấy giờ, lại mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ của các thi sĩ lãng kịch ấy được làm nổi bật bằng sự tương phản, đối laoaj giữa con đường muốn thoát thân với sự thực hiẹn hữu của cuộc đời các nhà Thơ mới lúc bấy giờ thoát lên tiên > Tác giả đã chỉ ra nội dung và tinh thần thơ mới. Tác giả phát hiện ra cốt lõi của thơ mới là chữ tôi và đánh giá cái tôi một cách sâu sắc, hài hoà. "Tất cả cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên". Các nhà thơ mới đã mất niềm Cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mớiCác nhà thơ mới tìm lại niềm tin bằng cách gửi vào tình yêu tiếng Việt. "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng"."Chưa bao giờ như bây giờ, họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chí biến thiên chứ không sao tiêu diệt"."Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai".III. KẾT THÚC VẤN ĐỀVới nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo và một văn phong tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc, Một thời đại trong thi ca đã nêu rõ nội dung cốt yếu của "tinh thần thơ mới" là chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó. Chữ tôi gắn liền với cá nhân, với cái riêng cá thể khác với chữ ta gắn liền với tổng thể, cộng đồng, xã giả phát hiện và chỉ rõ cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mới. Họ tìm lại lòng tin bằng cách gửi tâm hồn mình vào lòng yêu tiếng Việt, vào tình yêu quẻ hương, đất lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu tính thuyết Văn mẫu Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caPhân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận "Một thời đại trong thi ca".Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,... của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là "phải sánh bài hay với bài hay"; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là "Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ". Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy Quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam "thực bỡ ngỡ", như một kẻ "lạc loài nơi đất khách". "Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó" lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, "bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu". Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được "vô số người quen", cảm thấy "nó đáng thương", "nó tội nghiệp quá!".Bài "Tình già" của Phan Khôi, bài "Trên đường đời", "Vắng khách thơ" sau đổi thành "Xuân về" của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập "Thơ thơ" của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được "hình dáng câu thơ", thấy được cái tôi từ chỗ "bỡ ngỡ" lúc đầu rồi về sau được "vô số người quen" như thế nào?Năm vừa rồiChàng cùng tôiNơi vùng giáp MộTrong gian nhà cổTôi quay tơ,Chàng ngâm sau oanh giục giã,Nhìn ra hoa đua nở,Dừng tay tôi kêu chàng"Này, này! bạn! xuân sang"Chàng nhìn xuân mặt hớn hởTôi nhìn chàng lòng vồn vã“Xuân về' - Lưu Trọng LưVà đây là bốn câu thơ trích trong bài "Vội vàng” của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân...Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân "chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả". Những bậc kì tài như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, "thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ", thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác" 1. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ "ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người".Rượu đến cội cây ta sẽ uống,Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.Nguyễn Bỉnh KhiêmDừng chân đứng lại trời non nước,Một mảnh tình riêng ta với ta.Bà Huyện Thanh QuanGặp ta nay, xuân chớ lạ lùngTóc có khác nhưng lòng chẳng khácKế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trướcVẫn rượu thơ non nước thú làm vuiĐến xuân này ta tuổi đã năm mươiTính trăm tuổi đời người, ta mới nửaRồi sau lại bao nhiêu xuân nữaMặc trời cho ta chửa hỏi chiSẵn rượu đào xuân uống với ta đi...Gặp xuân- Tản ĐàCái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước "nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên "Tiếng sáo Thiên Thai" – Thế Lữ. Cũng nói đến say, đến cô đơn "Say đi em", "Phương xa" - Vũ Hoàng Chương. Hoặc phiêu lưu trong trường tìnhThuyền yêu không ghé bến sầuNhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăngMột mùa đông - Lưu Trọng LưHoặc điện cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồnHãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền, đau khổ với buồn lo".Chế Lan ViênChiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.Huy CậnTrăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơXuân DiệuCái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới"Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và "tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó"Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng".Đoạn cuối của bài tiểu luận "Một thời đại thi ca", Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng". Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.Điệp ngữ "Chưa bao giờ như bây giờ...’! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân năm 1943, 1944, thơ mới như bị "chững lại". Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,... đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện thập niên sau, đọc "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của "một thời đại thi cu".Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận "Một thời đại trong thi ca".Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,... của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là "phải sánh bài hay với bài hay"; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là "Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ". Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên "muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam "thực bỡ ngỡ", như một kẻ "lạc loài nơi đất khách". "Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó" lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, "bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu". Ngày một ngày hai, "mất dần vẻ bở ngỡ rồi được "vô số người quen", cảm thấy "nó đáng thương", "nó tội nghiệp quá!".Bài "Tình già" của Phan Khôi, bài "Trên đường đời", "Vắng khách thơ" sau đổi thành "Xuân về" của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập "Thơ thơ" của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giớỉ thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được "hình dáng câu thơ", thấy được cái tôi từ chỗ "bỡ ngỡ" lúc đầu rồi về sau được "vô số người quen" như thế nào?Năm vừa rồiChàng cùng tôiNơi vùng giáp MộTrong gian nhà cổTôi quay tơ,Chàng ngâm sau oanh giục gĩa,Nhìn ra hoa đua nở,Dừng tay tôi kêu chàng"Này, này! bạn! xuân sang"Chàng nhìn xuân mặt hớn hởTôi nhìn chàng lòng vồn vã"Xuân về' – Lưu Trọng LưVà đây là bốn câu thơ trích trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân...Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân "chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả". Những bậc kì tài như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,..., "thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ", thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác" 1. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ "ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người".Rượu đến cội cây ta sẽ uống,Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.Nguyễn Bỉnh KhiêmDừng chân đứng lại trời non nước,Một mảnh tình riêng ta với ta.Bà Huyện Thanh QuanGặp ta nay, xuân chớ lạ lùngTóc có khác nhưng lòng chẳng khácKế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trướcVẫn rượu thơ non nước thú làm vuiĐến xuân này ta tuổi đã năm mươiTính trăm tuổi đời người, ta mới nửaRồi sau lại bao nhiêu xuân nữaMặc trời cho ta chửa hỏi chiSẵn rượu đào xuân uống với ta đi...Gặp xuân - Tản ĐàCái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước "nỗi đời cay cực" của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên "Tiếng sáo Thiên Thai" - Thế Lữ. Cũng nói đến say, đến cô đơn "Say đi em", "Phương xa",... - Vũ Hoàng Chương. Hoặc phiêu lưu trong trường tìnhThuyền yêu không ghé bến sầuNhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăngMột mùa đông – Lưu Trọng LưHoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồnHãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền, đau khổ với buồn Lan ViênChiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm CậnTrăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơXuân DiệuCái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới"Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và "tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó"Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửỉ nỗi băn khoăn riêng".Đoạn cuối của bài tiểu luận "Một thời đại thi ca", Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng". Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, "tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai".Điệp ngữ "Chưa bao giờ như bây giờ..."! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân năm 1943, 1944, thơ mới như bị "chững lại". Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,... đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện thập niên sau, đọc "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của "một thời đại thi ca".Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 3Hoài Thanh là một trong những cây bút phê bình văn học xuất sắc của văn học Việt Nam “Hoài Thanh sinh ra dường như là để đọc thơ, bình thơ”. Ông tự nhận lối phê bình của mình là “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Trong đó, cuốn “thi nhân Việt Nam” là bản tổng kết nổi bật cho thời kì thơ Mới sau 10 năm, trong đó đoạn trích “một thời đại trong thi ca” rất tiêu biểu cho phong các phê bình tinh tế, nhẹ nhàng và tài hoa của ông. Đặc biệt, đoạn trích thể hiện rất rõ tinh thần thơ Mới đó là chữ tôi với ý nghĩa tuyệt đối nhất của giới thiệu tinh thần thơ Mới của Hoài Thanh rất trực tiếp , rõ ràng là chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối nhất của nó. Tại sao lại là tuyệt đối, bởi trong thơ ca trung đại không phải cái tôi chưa xuất hiện, mà ở đó cũng đã nở rộ những cá tính thơ sắc mạnh, độc đáo như Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Nguyễn Công Trứ...Nhưng điểm khác biệt giữa cái tôi cá nhân của thơ mới và thơ cũ là gì. Nếu như trong thơ cũ, không có cái tôi cá nhân chỉ có toàn thể thì trong thơ Mới cái tôi được đặc biệt đề cao gắn liền với ý thức và khát vọng giải phóng cái tôi cá nhân, bày tỏ chân thực cảm xúc và mong muốn của mình. Cái tôi cá nhân trong thơ xưa nếu có không tự xung hoặc ẩn đi còn cái tôi thơ Mới đi một mình với nghĩa tuyệt đối nhất của nó và đôi khi cũng gây cảm giác khó chịu. Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, thơ mới là tiếng nói của cái tôi. Cái tôi được đặt trong mối quan hệ với thời đại, tâm lí của những thanh niên đương thời, trong phát triển lịch đầu, cái tôi còn bỡ ngỡ thậm chí tội nghiệp. Nhưng ngày một ngày hai nó mất dần vẻ bỡ ngỡ mà dần xuất hiện với cốt cách hiên ngang, nhưng sau đấy cái tôi trở nên thảm hại, bi lụy và mất niềm tin vào hiện thực cuộc sống rơi vào bi kịch cái tôi bơ vơ trước thời cuộc. Hoài Thanh đã khát quát điều ấy bằng những dòng văn hết sức thấm thía và tinh tế, thể hiện phong cách phê bình tinh tế và tài hoa của mình đời chúng ta nằm trong vòng chữ “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, say đắm bơ vơ cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên khép lại, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn hoàn bơ vơ ta trở về ngẩn ngơ hồn ta cùng Huy Cận. vậy là, Hoài Thanh đã khái quát bi kịch muôn thuở và vĩnh cửu của thi nhân muôn thuở, đó là bi kịch cái tôi cô đơn, bơ vơ. Chính vì thế, người nghệ sĩ luôn khát khao sự tri âm đồng cảm từ độc vậy ta thấy rằng, cách trình bày của Hoài Thanh vừa có tính khái quát cao về sự bế tắc của những cái tôi thơ Mới, đồng thời nhận ra rõ các khuynh hướng thơ đào sâu vào cái tôi, bắt chúng diện mạo, phong cách riêng của từng nhà cách lập luận lô gic, chặt chẽ vừa khoa học vừa nghệ thuật đã giúp cho văn bản hiện lên thật sống động và chân thực. Như thế, đoạn trích của Hoài Thanh là sự khát quát chân thực và cụ thể tinh thần thơ Mới là cái tôi, ngoài ra còn là phát ngôn cho cho bi kịch đương diễn ra trong tam hồn của các thanh niên thơ Mới lúc bấy giờ và cách để họ thể hiện tình cảm của mình đó là gửi tình yêu của mình vào Tiếng Việt-tấm lụa bạch hứng vong hồn của các thế hệ đã đây vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca. Mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, mời các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập các môn được chúng tôi biên soạn và tổng hợp tại các mục sau Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...Để giúp bạn đọc có thể học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11, mời các bạn cùng tham khảo thêm các chuyên mụcSoạn bài lớp 11Soạn Văn Lớp 11 ngắn nhấtVăn mẫu lớp 11Phân tích bài Một thời đại trong thi ca trích Thi nhân Việt Nam của Hoài ThanhPhân tích nét chung trong cảnh thiên nhiên của Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc TửPhân tích sự thắng lợi của thơ mới trong Một thời đại trong thi ca
Một mở bài đây thôn vĩ dạ ngắn gọn, súc tích, gọi tên được vấn đề và có sức lôi cuốn không chỉ tạo tiền đề cho người viết triển khai mạch văn một cách dễ dàng mà còn tạo được ấn tượng tốt đẹp đối với người chấm. Mời bạn xem 9 mở bài được người chấm đánh giá xuất sắc dưới đây Mở bài 1. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mở bài 2. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây. Mở bài 3. Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo. Mở bài 4. Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? …. Ai biết tình ai có đậm đà” Mở bài 5. Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử. Mở bài 6. Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ. Mở bài 7. Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mặc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Mở bài 8. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây. Mở bài 9. Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau. Ngoài ra, các em có thể tham khảo 9 kết bài đây thôn vĩ dạ đã được viết trước đó.
Tôi giữa trời bơ vơ. Giao Chỉ San Jose kể chuyện tiễn đưa trung tá Lê Ngọc Tô. Tháng 3 năm 1954 tổng cộng 300 anh em chúng tôi xếp hàng ở trại Ngọc Hà, Hanoi. Đây là đám thanh niên Bắc Kỳ bị động viên được gọi đi Thủ Đức. Quân đội quốc gia mới thành lập sẽ huấn luyện cấp tốc các thiếu úy tưởng chừng sẽ đi cứu Điện Biên Phủ đang bị bao số hiện diện có một vài anh quê Nam Định. Vũ Văn Lộc, Trần Quốc Lịch, Nguyễn Thế Thứ, và Lê Ngọc Tô… Phần lớn còn trẻ chưa có nửa mối tình đầu. Chúng tôi chia tay Hà Nội trong bài ca bất hủ. Tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Sau khi cùng xây dựng 2 nền cộng hòa miền Nam, hai mươi mốt năm sau nước mất tan hàng tháng tư 1975. Bao nhiêu mộng đẹp tan ra thành khói bay bốn phương trời. Từ ngày đó đến nay tôi đã tiễn đưa bao nhiêu bạn cùng khóa lên đường về miền vĩnh cửu. Năm 72 trung tá Nghiêm Kế bị bắt tù binh trận Tân Cảnh. Năm 73 trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Nhã đón Nghiêm Kế trở về trên sông Thạch Hãn. Nhã nói rằng Kế ơi là Kế, sao mày khốn khổ thế này. Hai tháng sau trung tá Nhã gốc mũ đỏ về sư đoàn 1 bị pháo kích. Chúng tôi làm đám ma cho đại tá truy thăng với vòng hoa cườm Thương tiếc Nguyễn Thế Nhã anh hùng. Nghiêm Kế khóc rằng. Nhã ơi Nhã. Sao số mày khốn nạn thế này. Sau cùng Nghiêm Kế vẫn còn sống ở San Jose cho đến năm 2020. Hai năm qua, với công việc hội trưởng của khóa Cương Quyết Đà Lạt 1954, tôi trở thành người chuyên lo Chung sự cho anh em. Tôi thừa biết rồi sẽ có một ngày anh em chẳng còn ai. Đưa người ta, không đưa qua chẳng còn sóng ở trong lòng… Nào ngờ ngày sau cùng đó chính là hôm qua. Ngày thứ bẩy đầu tiên của tháng 9 năm 2021. Cả khóa trong tang lễ chỉ còn lại có 2 thằng cùng quê Nam Định. Một thằng nằm. Một thằng đứng. Trung tá Lê Ngọc Tô sinh năm 1934 đội mũ đỏ nằm trong quan tài. Tuy đã già những nét mặt bình yên. Con người của chiến tranh, của tù đầy, của cô đơn. Nhân hậu và dễ thương với chiến hữu và đơn vị nhưng xa cách và gia trưởng với vợ con. Phần tôi vẫn là thằng đứng đó giữa tang gia và bạn bè của gia đình. Rất đông các thanh niên nam nữ bạn bè của con cháu người ra đi. Tất cả mặc quần áo đen lịch sự và giữ yên lặng. Hầu hết đều không biết người chết là ai. Ông già này từ đâu đến và hơn 80 năm qua ông đã làm công việc gì. Tang gia có 3 cô con gái nhưng không giới thiệu ai là vợ. Dù không biết nhưng cũng không ai thắc mắc. Các cô thương yêu biết rõ về thân phụ nhưng không cháu nào biết rõ về ông trung tá nhảy dù. Lại càng không biết về ông chỉ huy đơn vị cảnh sát dã chiến. Mười hai chiến binh nhảy dù xếp hàng nghiêm chỉnh làm lễ phủ cờ cho người anh hùng mũ đỏ nhưng không ai biết về những thành tích của ông thời đệ nhất cộng hòa. Đại diện hội cảnh sát và hội Võ bị lên chia buồn cùng tang quyến nhưng cũng không có dịp biết về công việc của vị trung tá cảnh sát thời đệ nhị cộng hòa. Tôi sinh năm 1933 hơn bạn Tô một tuổi cùng quê Nam Định vì duyên nợ quân trường nên biết nhau qua 21 năm binh nghiệp. Nhưng quả thực không biết rõ về gia cảnh, về chuyện ngục tù, chuyện HO và đời sống nơi đất khách quê người. Gặp nhau 1 lần họp khóa ở Việt Nam rồi lại gặp nhau khi bạn HO mới qua Mỹ. Đã gần 30 năm qua Lê Ngọc Tô mới trở lại San Jose, tôi nhớ thủa từ Nam Định lên trại Ngọc Hà Hà Nội. Mười năm sau họp khóa ở Việt Nam rồi lại gặp nhau khi bạn HO mới qua Mỹ. Đã gần 30 năm qua Lê Ngọc Tô mới trở lại San Jose. Ngày xưa tuổi trẻ rực rỡ như sao mai, bây giờ một thằng nằm và một thằng đứng. Tôi với trời bơ vơ biết nói gì với người yêu cũ của bạn và đám con cùng với tuổi trẻ m ặc áo đen đưa đám người anh hùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Khóa chúng tôi ở miền Bắc này có 10 bà quả phụ và 8 vị anh hùng. Chỉ duy có con gái Đinh Trọng Ất chở mẹ ghé qua. Tất cả quý ông bà còn lại đều không đi được hoặc con cái không có ngày giờ thuận tiện. Hội trưởng về chiều tuyên bố các bạn cứ kêu Taxi hay Hu Bơ hội ta sẽ trả tiền. Các bạn tôi cho biết chưa từng gọi Hu Bơ và dù có kêu cũng rất cần có y tá hộ tống. Vì những lý do rất dễ thương như vậy nên tôi không bàn nữa mà xin kể qua câu chuyện riêng về bạn Lê Tô như sau. Năm 1954 khi ra trường Tô về nhẩy dù và trải qua các đơn vị tác chiến cho đến khi lên đại úy và làm tiểu đoàn phó. Sau thời gian dài làm sĩ quan mũ đỏ, đẹp trai hào hoa phong nhã anh lập gia đình với giai nhân Cẩm Dung qua mối tình Chú Cháu như tiểu thuyết của Chu Tử. Cô vợ trẻ hơn chồng trên 10 tuổi đã sinh hạ cho chàng một trai và 3 21 năm chiến tranh anh sinh viên sỹ quan của khoá Cương Quyết Đà Lạt đã 4 lần lãnh chiến thương bội tinh. Đã từng làm quận trưởng cảnh sát quận 6 và chỉ huy sảnh sát dã chiến. Lần bị thương và thoát chết lịch sử là bị không quân Mỹ bắn nhầm trong Chợ Lớn năm Mậu Thân 1968. Giai đoạn tiếp theo là trang sử thi của gia đình và đất nước. Trung tá Tô đi tù tập trung 13 năm và người vợ tiểu thư gánh vác toàn vẹn việc nuôi con và nuôi chồng trong tù. Đến khi được tự do và gia đình HO qua Mỹ thì ông trung tá nhảy dù vốn là người của chiến tranh nên không thích hợp với cuộc sống bình yên tại Mỹ. Lê Ngọc Tô quyết định xa gia đình, tìm cuộc sống cô đơn và biệt lập ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ. Cô Cẩm Dung trở thành bà mẹ quán xuyến một mình xây dựng cuộc sống nuôi đàn con trưởng thành như phép lạ. Những đứa con gái hiếu thảo vẫn liên lạc với thân phụ và sau cùng vào những ngày tháng sau cùng đưa ông Tô về San Jose để trông nom trong giờ phút cuối. Phút lâm chung. Chuyện gia đình kể rằng vào ngày sắp ra đi ông Tô đã rất yếu. Những người con gái và bà mẹ ngồi quanh giường bệnh. Con gái thì vẫn là những đứa con gái thương yêu của bố. Nhưng người thiếu phụ bây giờ không phải là vợ, cũng chẳng phải là người yêu dấu bé bỏng ngày xưa. Bà ngồi đó tiếp tay cho con gái soa bóp cho ông Tô. Kỷ niệm nào còn lại hơn 10 năm làm vợ. Gần 13 năm nuôi tù. Rồi những năm chuẩn bị HO. Sau cùng là 30 năm xa cách ngay tại xứ Mỹ. Con gái nói. Bố có biết ai đang soa bóp không. Tay mẹ đấy. Trên khuôn mặt già nua hiu hắt qua ánh mắt chợt như nở một nụ cười. Tiếng con trẻ lại kêu vang. Bố cười rồi mẹ ơi. Trung tá Lê ngọc Tô thực sự đã mỉm cưới trước khi ra đi về miền vĩnh cửu. Con người mãi mãi thuộc về chiến tranh. Một thứ gia trưởng trong gia đình. Không biết bày tỏ tình yêu thương vợ con. Ở Việt Nam làm ông lớn đã đành. Đi tù về không chịu đạp cyclo. Qua Mỹ không chịu quét nhà. Vợ nấu cơm tháng nhưng chồng không chịu lái xe. Thời vàng sơn không chịu giao tiền cho vợ. Vào giờ phút cuối cùng anh Tô giao phong bì có chút tiền dành dụm bảo con đưa cho vợ. Cẩm Dung vừa khóc vừa nói. Ngày xưa anh không đưa tiền cho em vung vít. Bây giờ lâm chung anh đưa tiền cho người vợ cũ làm gì. Nhưng cô Dung ơi. Đó không phải là tiền. Đó chính là tình yêu. Người anh hùng của cuộc chiến tranh tan hàng gẫy súng. Ông Tô đứng về phe thua cuộc. Ở Việt Nam ông không chịu đạp Cyclo. Đi Mỹ ông không chịu quét nhà và đưa cơm tháng. Ông khước từ đoàn tụ ngay trên đất Mỹ. Tô phải tìm đường đi xa vì ông mãi mãi là gia trưởng của nhà Lê. Ông là con cháu vua Lê Đại Hành, Lê Ngọc Tô không chịu lao động trước mặt vợ con. Anh đành đoạn để vợ con lao động tự do. Trước phút lâm chung bạn Tô của tôi đưa cho vợ phong bì với chút tiền dành dụm từ 30 năm xa cách. Đó chính là thông điệp của người gia trưởng. Vẫn còn tiền và trách nhiệm đùm bọc vợ con . Tiền đó chính là tình yêu. Tình yêu của chú Tô gửi cho cháu Dung. Sau cùng cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn lại mối tình Chú Cháu. Tôi đứng dưới trời bơ vơ mà giải được một cuộc tình. Ước mong tìm được cái vòng hoa Cườm ngày xưa tôi đặt làm cho đại tá Nguyễn Thế Nhã với hàng chữ Tiếc Thương Nguyễn Thế Nhã anh hùng. Nếu phải ông còn đủ quyền hành như thời xưa. Trung tá Lê Ngọc Tô sẽ ra đi với cấp bậc đại tá truy thăng. Bây giờ tôi với bạn chỉ còn là một thằng đứng và một thằng nằm dưới trời bơ vơ. Chờ đến lượt mà thôi. Xin cảm ơn anh em Mũ đỏ phủ cờ. Hội Võ bị và hội Cảnh sát đến chia buồn. Cảm ơn thiệt tình.— Tiểu sử Trung tá nhảy dù Lê ngọc Tô Trung tá Tô một thời được coi như anh hùng của binh chủng Mũ đỏ. 11 lần tuyên dương công trạng với 16 huy chương gồm đệ tứ bảo quốc với ngành dương liễu và 4 chiến thương bội tinh. Từ trung úy năm 1954 lên trung tá năm 1968. Chỉ huy các đơn vị nhảy dù cấp trung đội lên đại đội và tiểu đoàn. Với vóc dáng cao lớn ông được tuyển chọn làm sĩ quan liên lạc hội nghị Colombo. Được đặc cách qua chỉ huy biệt đoàn cảnh sát dã chiến. Trưởng ty cảnh sát quận 6 kiêm đặc khu trưởng khu 6 thuộc đô thành Sài Gòn. Đơn vị sau cùng ông là phối trị viên cho nghị hội Liên hợp quân sự 2 bên. Trung tá Tô cũng đã trải qua 12 năm 8 tháng 3 ngày tù tập trung từ trong Nam ra ngoài Bắc. Cùng gia đình định cư tại Bắc CA cuối năm 1991— Giao Chi San Jose. giaochi12 408 316 8393
tôi bơ vơ hoài trở về