tại sao việt nam luôn bị xâm lược

Tại sao mỹ xâm lược việt nam. Đưa ra dấn xét về bản chất của trận chiến tranh kéo dài trên nhị thập niên trong cầm kỷ trước khiến cho hàng triệu người thiệt mạng, mến vong, sản phẩm triệu gia đình chia rẽ, ly tán sinh hoạt Việt Nam, công ty nghiên cứu lịch sử vẻ Đáp án chi tiết, giải thích dễ hiểu nhất cho câu hỏi: "Tại sao thực dân Pháp lại xâm lược nước ta"cùng với kiến thức tham khảo do Top lời giảibiên soạn là tài liệu cực hay và bổ ích giúp các bạn học sinh ôn tập và tích luỹ thêm kiến thức bộ môn Lịch sử 8. Nội dung chính Tại sao thực dân Pháp xâm TẠI SAO CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á BỊ XÂM LƯỢC. 28/01/2022. - Các nước tư bản thực dân (cụ thể là Pháp) đang trong quá trình phát triển chủ nghĩa đế quốc mạnh mẽ, cần nguyên liệu, thị trường, thuộc địa, nên đang tích cực đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Vann Phan/Người Việt. SANTA ANA, California (NV) - Trong cuộc Chiến Ttinh quái cả nước hồi các thập niên 1960 và 1970, Hoa Kỳ đã ra sức khiến áp lực nặng nề buổi tối nhiều lên Cộng Sản Bắc Việt để họ đề xuất từ bỏ quăng quật kế hoạch xâm chiếm miền Nam nước ta Ở Mỹ, ủng hộ toàn dân nhằm chống Cộng sản ở miền Nam Việt Nam đã khởi đầu mạnh mẽ rồi mới hạ nhiệt dần khi chiến tranh ngày một dai dẳng. Tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam, ủng hộ toàn dân cho cuộc chiến luôn nửa vời, và phần lớn (và ở một số vùng là đa số materi matematika kelas 9 semester 1 pdf. Theo bản tin từ Hoàn cầu Thời báo hôm 6 tháng 7 năm 2021, tàu nghiên cứu mới nhất và lớn nhất của Trung Quốc có tên “Đại học Tôn Trung Sơn” sẽ đến quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trong tháng 10 tới để thúc đẩy thăm dò các vùng biển giàu tài nguyên; nghiên cứu “hơi nước của ranh giới phía tây của Biển Đông cũng như các vùng biển lân cận nhằm cung cấp hỗ trợ khoa học cho việc phòng chống thiên tai”. Con tàu được coi là phòng thí nghiệm di động cỡ lớn trên biển này dài 113m, rộng hơn 19m được đóng tại nhà máy đóng tàu Giang Nam - Thượng Hải và mới được bàn giao cho các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Tôn Trung Sơn vào tháng trước. Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 8 tháng 7 năm 2021, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước thông tin Trung Quốc sắp đưa tàu nghiên cứu khổng lồ đến Hoàng Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tuyên bố “Mọi hoạt động thăm dò, khảo sát và nghiên cứu khoa học tại quần đảo Hoàng Sa mà không được sự cho phép của Việt Nam là xâm phạm chủ quyền và các quyền liên quan của Việt Nam, là bất hợp pháp và vô giá trị”. Chuyện phát ngôn của Bộ ngoại giao Việt Nam so với thực tế ngoài Biển Đông thì ai cũng lấy làm lạ là Việt Nam luôn luôn bị gò ép, luôn luôn bị ăn hiếp, bị lấn áp nhưng tại sao người phát ngôn chỉ có một cách là phản đối miệng, còn hành động quân sự, chiến lược quốc phòng như thế nào thì người dân rất mù mờ. - Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc Theo nhận định của nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc, mỗi lần Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông là Việt Nam chỉ có phản đối miệng, ngoài ra không có hành động phản kháng nào khác. Ông nói “Chuyện phát ngôn của Bộ ngoại giao Việt Nam so với thực tế ngoài Biển Đông thì ai cũng lấy làm lạ là Việt Nam luôn luôn bị gò ép, luôn luôn bị ăn hiếp, bị lấn áp nhưng tại sao người phát ngôn chỉ có một cách là phản đối miệng, còn hành động quân sự, chiến lược quốc phòng như thế nào thì người dân rất mù mờ. Chưa bao giờ có ai nói một cách công khai là Việt Nam sẵn sàng đối phó với Trung Quốc. Việt Nam chỉ nói có đủ quyết tâm, đủ tiềm lực để đánh bại mọi âm mưu xâm lược một cách chung chung. Ai xâm lược Việt Nam thì cũng không biết!” Có giải thích rằng, cách phản ứng của Việt Nam là để giữ vững quan hệ hữu hảo, không cho Trung Quốc cơ hội vin vào bất cứ cớ nào gia tăng tình hình căng thẳng trên Biển Đông. Trong khi đó, Việt Nam vẫn âm thầm chuẩn bị lực lượng quân sự và quốc phòng để sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu xâm lược. Cũng có nhiều người đánh giá, Việt Nam không thể làm gì khác vì phụ thuộc quá nặng vào Trung Quốc cả chính trị lẫn kinh tế. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia Úc về Việt Nam và vấn đề Biển Đông phân tích thêm với RFA qua email “Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc phản đối và bác bỏ việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, khi Trung Quốc cử một tàu nghiên cứu tiến hành các hoạt động. Nếu Việt Nam im lặng, sau này Trung Quốc có thể lập luận rằng Việt Nam đã chấp nhận các yêu sách về “chủ quyền không thể tranh cãi” trên Biển Đông bao gồm cả Hoàng Sa. Thay vào đó, Việt Nam có thể trình một bản ghi nhớ bổ sung aide-memoir, ghi chú bằng lời nói hoặc công hàm cho Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Nếu vấn đề được coi là rất nghiêm trọng, Việt Nam nên yêu cầu Đại sứ tại Bắc Kinh phản đối chính thức với Bộ Ngoại giao nước này.” Cũng liên quan Hoàng Sa, mới tháng trước, Tân Hoa Xã đưa tin chính quyền tỉnh Hải Nam, Trung Quốc đã triển khai dự án gắn thẻ tên nhằm ghi nhận các loài thực vật ở hơn 10 đảo và cấu trúc thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến nay, 500 loài thực vật đã được gắn tên. Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 24 tháng 6 năm 2021, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng lại tuyên bố “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Các hành vi dưới mọi hình thức vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đều vô giá trị, không được công nhận”. Trong khi Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, thì trên đất liền, lãnh đạo cao cấp của Việt Nam lại ca ngợi 100 năm đảng cộng sản Trung Quốc; ca ngợi thành tựu 70 năm của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa… Ông Đinh Kim Phúc đặt câu hỏi về cách hành xử của giới lãnh đạo Việt Nam “Vậy đối ngoại cấp cao giữa hai nước là gì, những thỏa thuận cấp cao giữa hai đảng, hai Nhà nước là gì? Không ai biết. Phản ứng của Việt Nam như thế có phản ánh được quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo hay không, hay vấn đề này nó nằm một phần trong chiến lược quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Trung Quốc? Cách trả lời của Bộ Ngoại giao Việt Nam từ năm này đến năm khác làm cho người dân không biết sự thật, không rõ được quyết tâm bảo vệ tổ quốc của lãnh đạo Việt Nam như thế nào!” Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc phản đối và bác bỏ việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của đối với quần đảo Hoàng Sa bằng cách Trung Quốc cử một tàu nghiên cứu tiến hành các hoạt động. Nếu Việt Nam im lặng, sau này Trung Quốc có thể lập luận rằng Việt Nam đã chấp nhận các yêu sách về “chủ quyền không thể tranh cãi” trên Biển Đông bao gồm cả Hoàng Sa. - Carl Thayer Trung Quốc từ rất lâu đã có tham vọng độc chiếm Biển Đông với “Đường lưỡi bò” tự vẽ bao trọn 75% diện tích mặt nước của Biển Đông. Đường lưỡi bò xuất hiện lần đầu tiên trong bản đồ Trung Quốc vào năm 1948 với tên gọi “Đường mười một đoạn”. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau khi thành lập năm 1949 vẫn tự xác định lãnh thổ trên Biển Đông theo đường mười một đoạn này. Đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ, trở thành “Đường chín đoạn”. Ngày 12 tháng 7 năm 2016, Toà Trọng tài ra phán quyết tuyên bố chủ quyền “Đường lưỡi bò” mà Trung Quốc gọi là “quyền lịch sử” là trái ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển; Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào để tuyên bố quyền lịch sử đối với những tài nguyên biển trong đường chín đoạn này. Trung Quốc bác bỏ phán quyết của tòa án. Trong thông cáo ra cùng ngày, Bộ Quốc phòng Trung Quốc khẳng định phán quyết này không ảnh hưởng đến chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc hôm 2 tháng 6 năm 2020 đã gởi công hàm cho Tổng thư ký Antonio Guterres, nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ phán quyết La Haye năm 2016. Hoa Kỳ đồng thời yêu cầu cho lưu hành công hàm này cho tất cả các quốc gia thành viên như tài liệu chính thức của Đại hội đồng. Trong cuộc chiến giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, Việt Nam đã chịu nhiều tổn thất nhưng nhiều năm sau đó vẫn bị hiểu sai và xuyên tạc. Ngày 20/7, Ban Tuyên giáo Thành uỷ TP HCM và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức hội thảo TP HCM với cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và 10 năm thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Phnom Penh, Campuchia. Có mặt từ ngày đầu Việt Nam tham gia Liên Hợp Quốc năm 1977, ông Võ Anh Tuấn cựu Đại sứ Việt Nam kể, Việt Nam từng vấp phải nhiều khó khăn trong vấn đề Campuchia. Chủ đề này luôn nóng trong mỗi cuộc họp về hoà bình, an ninh. Trước việc nhiều nước chỉ trích cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia, phái đoàn Việt Nam phải tìm những lập luận để phản bác, khẳng định cuộc chiến là chính nghĩa. "Liên Xô đưa quân vào Đông Âu chống phát xít Đức, Ấn Độ đưa quân vào Pakistan giúp giải phóng Bangladesh, thì được ủng hộ? Tại sao Việt Nam giúp nhân dân Campuchia lại bị lên án, đáng lý phải khen chứ?", ông Tuấn nói. Ông Võ Anh Tuấn, cựu Đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc. Ảnh Mạnh Tùng. Khi Pol Pot bị đánh đổ, chính quyền mới của Campuchia được thành lập năm 1979 thì lực lượng Campuchia Dân chủ vẫn còn tồn tại. Một phần nguyên nhân chính thể này vẫn có thế lực đứng sau hậu thuẫn. "Thế khó của Việt Nam khi đó là ít bạn. Chúng ta gần như bị cô lập về vấn đề Campuchia", ông kể. Cựu đại sứ cho biết, Liên Hợp Quốc khi đó có hơn 90 nước, để nghe, hiểu và trả lời cho họ hiểu lý lẽ Việt Nam, là điều rất khó. Khi đó, đoàn ngoại giao luôn vận dụng châm ngôn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với ông Huỳnh Thúc Kháng trước khi rời Hà Nội sang Pháp năm 1946 là "dĩ bất biến, ứng vạn biến". "Trong quan hệ quốc tế, bạn hay thù có thể thay đổi, nhưng độc lập chủ quyền dân tộc thì không bao giờ. Anh giữ được độc lập chủ quyền thì luôn đúng, không giữ được thì anh nói gì cũng sai", ông chia sẻ. Ở góc độ nhà nghiên cứu, PGS Nguyễn Mạnh Hà Viện lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia TP HCM nhận định cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nằm trong ý đồ chiến lược chung của các thế lực phản động quốc tế, thông qua bàn tay của tập đoàn Pol Pot, nhằm cô lập và phá hoại Việt Nam. Theo ông, Campuchia Dân chủ Pol Pot là người đứng đầu chính phủ thua kém hơn nhiều so với Việt Nam về quân sự nhưng tấn công Việt Nam một cách chủ động. Nguyên nhân là họ có thế lực bên ngoài xúi giục, hỗ trợ, giúp đỡ về vũ khí, vật chất và cố vấn. Thêm vào đó, Việt Nam bị chính quyền Mỹ bao vây, cấm vận toàn diện khi chiến tranh kết thúc. Chính quyền Trung Quốc cũng gây sức ép toàn diện nhằm buộc Việt Nam phải nghe theo, thực hiện yêu cầu từ Bắc Kinh. Khi Việt Nam phản ứng thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ thì Mỹ, Trung phản ứng. GS Võ Văn Sen phát biểu tổng kết hội thảo. Ảnh Mạnh Tùng. Tại hội thảo, nhiều đại biểu khẳng định chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc chiến vì chính nghĩa. Hành động giúp đỡ nhân dân Campuchia của Việt Nam là trong sáng, xuất phát từ tình bạn giữa hai nước. Theo GS Võ Văn Sen Uỷ viên Hội đồng lý luận Trung ương, những người đứng đầu nhà nước Campuchia Dân chủ đã thiết lập một chế độ độc tài, phá vỡ mọi quan hệ sản xuất, thiết chế xã hội, khủng bố. "Pol Pot đã biến đất nước Campuchia thành một lò sát sinh khổng lồ, địa ngục trần gian chìm trong máu và nước mắt", ông Sen so sánh. Campuchia Dân chủ cũng có hành động xâm lược khi đã cho quân chiếm một số đảo và nhiều điểm sâu trong nội địa Việt Nam từ tháng 5/1975. Trước chiều hướng leo thang trong chiến tranh của tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary, Việt Nam đánh trả, bảo vệ lãnh thổ của mình. "Cuộc chiến chống Pol Pot là hoàn toàn chính đáng, cần thiết cho Việt Nam. Sự giúp đỡ Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, cứu dân tộc Campuchia khỏi miệng hố diệt vong là hành động phù hợp pháp lý, vì nghĩa tình quốc tế cao cả", GS Sen nói. Quân y Việt Nam khám bệnh cho người dân Campuchia. Ảnh Tư liệu Quân khu 9. Cùng quan điểm, TS Lê Hồng Liêm, Phó chủ tịch Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia cho rằng, sự thật đã bị cộng đồng quốc tế hiểu sai trong suốt thời gian dài. Nhiều nước xuyên tạc, vu khống Việt Nam và tiến hành nhiều biện pháp bao vây cấm vận. "Vì nhân dân và đất nước Campuchia mà Việt Nam đã chịu nhiều hy sinh, tổn thất. Phải đến 30 năm sau tập đoàn Pol Pot mới bị toà án Liên Hợp Quốc và Campuchia đưa ra xét xử và kết án phạm tội ác diệt chủng", ông Liêm nói. Từ năm 1975, giữa Việt Nam và chế độ Campuchia Dân chủ Pol Pot là người đứng đầu chính phủ xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Quân Pol Pot liên tục gây hấn, đòi hoạch định lại biên giới với Việt Nam, gây ra các cuộc xung đột vũ trang. Đêm 30/4/1977, lợi dụng Việt Nam đang kỷ niệm hai năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Pol Pot tấn công toàn biên giới Tây Nam, mở đầu cho cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Số liệu từ Bộ Tổng tham mưu cho thấy, trong khoảng hai năm sau ngày 30/4/1975, Pol Pot đã xâm phạm biên giới Việt Nam trên lần, gây tổn thất người. Cuối năm 1976, cuộc tiến công của quân Pol Pot vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng tăng với quy mô lớn, có lúc đánh sâu vào tới 15 km. Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở phía Nam "Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia". Nhận lệnh, các đơn vị quân khu 5, 7, 9 và các quân đoàn 3, 4 tổ chức điều chỉnh lực lượng, phương tiện, xây dựng phương án chiến đấu. Cuộc chiến trải qua nhiều giai đoạn. Ngày 26/12/1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pol Pot bị phá vỡ, đến 31/12 Việt Nam đã thu hồi được chủ quyền lãnh thổ bị đánh chiếm. Ngày 6/1/1979, quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia tổng công kích vào Phnom Penh. Sau 2 ngày, thủ đô này hoàn toàn được giải phóng chiều ngày 7/1. Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập, ra tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn chế độ Pol Pot, thành lập Cộng hòa nhân dân Campuchia. Ngày 17/1, toàn bộ Campuchia được giải phóng, phần lớn lực lượng Pol Pot bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên các tuyến biên giới. Pol Pot sau đó khôi phục lại lực lượng ở biên giới giáp với Thái Lan nhờ sự hậu thuẫn từ bên ngoài, tổ chức đánh du kích, đe dọa sự tồn tại của chính quyền Hunsen. Bộ đội Việt Nam hy sinh lúc này nhiều nhất. Từ năm 1986, nhận thấy chính quyền mới ở Campuchia vững vàng, Việt Nam bắt đầu rút quân, đến năm 1989 thì rút hết. Tổng hợp từ tài liệu Hội thảo khoa học cấp quốc gia "40 năm ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng 7/1/1979-7/1/2019" Xuất bản 30/10/2020 - Cập nhật 30/10/2020 - Tác giả Chu Huyền Câu HỏiVì sao nước ta thường bị các thế lực ngoại xâm nhòm ngó, đe dọa, tiến công xâm lược Nếu có chiến tranh với Mỹ, Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam trước? Thượng tướng Trung Quốc Hứa Kì Lượng cảnh báo chuẩn bị cho nguy cơ chiến tranh với Mỹ. Trong khi một số chuyên gia nhận định Trung Quốc sẽ chọn Việt Nam là mục tiêu đầu tiên để Trung Quốc tấn công. Đang xem Tại sao việt nam luôn bị xâm lược Trung Quốc nhắc đến Bẫy Thucydides Hôm tám tháng Ba năm 2021, tờ South China Morning Post có bài viết Chinas military must spend more to meet US war threat, tạm dịch là Trung Quốc cần tăng chi tiêu quốc phòng chuẩn bị cho nguy cơ chiến tranh với Mỹ. Bài viết dẫn lời Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, Thượng tướng Hứa Kì Lượng nói Trung Quốc cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho Bẫy Thucydides. Cụm từ Bẫy Thucydides được sử dụng rộng rãi để chỉ các cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và được Nhà khoa học chính trị Mỹ Graham T. Allison phổ biến dựa trên lời của nhà sử học Hy Lạp Thucydides. Nó mang hàm nghĩa rằng, chiến tranh là điều không tránh khỏi khi một trung tâm quyền lực mới nổi lên đe doạ thay thế trung tâm quyền lực cũ. Câu chuyện chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc được các chuyên gia chiến lược nhắc đến nhiều trong mấy năm gần đây. Tại Diễn đàn An ninh Warsaw diễn ra tại Ba Lan vào tháng 10 năm 2018, cựu chỉ huy quân đội Mỹ tại Châu Âu, Trung tướng Ben Hodges đã cảnh báo về khả năng một cuộc chiến sẽ có thể xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc trong vòng 15 năm tới. Tướng Hodges đề cập đến việc tàu chiến Trung Quốc đi gần tàu chiến Decatur của Mỹ vào cuối tháng Chín năm 2018, khi Mỹ thực hiện hoạt động tuần tra trong chương trình tự do hàng hải ở Biển Đông. Trung Quốc hiện nay đã rất mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự để có thể đối đầu trực tiếp với Mỹ. Quan điểm này là vô cùng nguy hiểm vì có thể dẫn đến chiến tranh bất kỳ lúc nào. Giới chiến lược đã dự đoán điều này từ cách đây hai năm rồi. Chuyện xảy ra hầu như không thể tránh khỏi. – Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp Nhà phân tích chính trị, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định Người ta dự đoán như thế khá là đúng, bởi Mỹ là nước có tiềm lực quân sự đang dẫn đầu thế giới. Bây giờ Trung Quốc có nhiều súng đạn, nhiều tiền hơn thì họ đòi chia quyền lực với Mỹ. Giới nghiên cứu, giới hoạch định chính sách và kể cả các chính khách dân sự đều phân tích và dự đoán rằng, việc này tất yếu sẽ dẫn đến chiến tranh. Trước đây có một học giả tên Thucydides nói rằng, trong tất cả các cuộc tranh chấp về quyền lực thì tỷ lệ chiến tranh xảy ra là 9/10. Trung Quốc hiện nay đã rất mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự để có thể đối đầu trực tiếp với Mỹ. Quan điểm này là vô cùng nguy hiểm vì có thể dẫn đến chiến tranh bất kỳ lúc nào. Giới chiến lược đã dự đoán điều này từ cách đây hai năm rồi. Chuyện xảy ra hầu như không thể tránh khỏi. Trong bài phát biểu đầu tiên về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ vào hôm ba tháng Ba vừa qua, Ngoại trưởng Antony Blinken tuyên bố Mỹ sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc ở bất cứ nơi nào cần thiết và gọi mối quan hệ với Bắc Kinh là thử thách địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ này. Ông Blinken nhận định, Trung Quốc là đối thủ duy nhất có khả năng kết hợp sức mạnh kinh tế, ngoại giao, quân sự, công nghệ để tạo ra thách thức lâu dài đối với hệ thống quốc tế ổn định và cởi mở. Ngoại trưởng Hoa Kỳ lưu ý mối quan hệ Mỹ – Trung sẽ mang tính cạnh tranh khi cần thiết, hợp tác khi có thể và đối thủ khi bắt buộc. Xem thêm Tại Sao Kiềng 3 Chân Lại Vững Như Kiềng 4 Chân'? Chiếc “Kiềng Ba Chân” Của Sự Thành Công Là Gì Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam? Theo South China Morning Post, để chuẩn bị cho nguy cơ chiến tranh với Mỹ, Thượng tướng Hứa Kì Lượng đề nghị tăng ngân sách cho quân đội. Bộ Quốc phòng Trung Quốc thông báo kế hoạch tăng ngân sách quốc phòng lên hơn 208 tỉ USD trong năm 2021, tức tăng gần 7% so với năm 2020. Nếu có chiến tranh xảy ra thì Việt Nam có nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc hay không? Trong một bài viết từ năm 2019, nhà báo David Hutt đã dựa trên các phân tích của các chuyên gia để kết luận rằng, nếu có một cuộc chiến tranh tại khu vực Biển Đông thì Việt Nam sẽ là mục tiêu đầu tiên mà Trung Quốc tấn công như là một cách để khởi động trước khi có một cuộc chiến lớn hơn với Mỹ trên vùng biển này. Ông Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng của tổ chức nghiên cứu RAND Corporation, trong một bài viết trên tạp chí của tổ chức này vào tháng Năm năm 2019 cũng đưa ra lập luận tương tự rằng, nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự ở Biển Đông, đối thủ được lựa chọn rất có thể sẽ là Việt Nam. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận xét về điều này Nếu đánh thì trước hết Trung Quốc sẽ tấn công Đài Loan. Họ đổ bộ và đánh chiếm Đài Loan coi như tái thống nhất bằng vũ lực. Đấy là luận điểm và chính sách của Trung Quốc mà họ đã nói ra nhiều lần. Song song đó, hoặc trước, hoặc sau, Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam ở Biển Đông vì Việt Nam là nước cương cường nhất với Trung Quốc trong số các quốc gia tranh chấp ở Biển Đông. Nó phù hợp với các phân tích và dự đoán của các học giả chiến lược ở cả phương Tây, các nơi khác và ngay cả Trung Quốc. Đánh Việt Nam thì chủ yếu là đánh ở Trường Sa chứ không thể có chuyện đánh Việt Nam trên đất liền. Việt Nam không mạnh trên phương diện đối chiếu về năng lực vũ khí hay về mặt lực lượng với Trung Quốc, nhưng Việt Nam rất mạnh về phòng thủ và tự vệ. Nếu Trung Quốc đánh Việt Nam thì Việt Nam sẽ đánh trả và sẽ có đồng minh. Việt Nam đã có sẵn nhưng không cần phải tuyên bố ra làm gì. Đánh từ sớm nghĩa là phải có dự báo. Đánh từ xa là phải có đối ngoại. Mà đặc thù lớn nhất của đối ngoại là tình báo, là nghiên cứu, là phải hợp tác với các nước gần đối tượng. Dù Việt Nam không nói ra nhưng ai cũng hiểu Việt Nam đã có đủ hết. – Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp Ông Hợp nói thêm rằng, trước đây Mỹ công nhận Đài Loan và Trung Quốc là một quốc gia, nhưng về mặt thực tế, hai nước phải thống nhất một cách hòa bình chứ không được dùng vũ lực. Khi xảy ra chiến tranh thì người Mỹ sẽ giúp Đài Loan đánh lại Trung Quốc, bởi giữa Mỹ và Đài Loan có một thỏa thuận 18 điểm rất quan trọng. Trong trường hợp Đài Loan bị xâm lược thì Mỹ có thể giúp Đài Loan trực tiếp để chống lại quân xâm lược. Còn với Việt Nam thì sao? Ông Hợp nhận định Chiến lược của Việt Nam là không bị bất ngờ; không bị động; đã đánh địch thì phải đánh từ sớm và từ xa. Đánh từ sớm nghĩa là phải có dự báo. Đánh từ xa là phải có đối ngoại. Mà đặc thù lớn nhất của đối ngoại là tình báo, là nghiên cứu, là phải hợp tác với các nước gần đối tượng. Dù Việt Nam không nói ra nhưng ai cũng hiểu Việt Nam đã có đủ hết. Đầu năm 2021, ông Derek Grossman có bài bình luận đăng trên tờ The Diplomat, đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, trong đó có đoạn Trong khi chính quyền Joe Biden có khả năng sẽ tiếp tục đà tích cực trong quan hệ song phương thì vẫn chưa rõ Hà Nội tìm kiếm điều gì cụ thể từ Washington để giúp họ bắn tiếng với Bắc Kinh một cách hiệu quả. Xem thêm Cách Học Giỏi Môn Tiếng Anh Dễ Dàng, 4 Cách Học Hiệu Quả Nhớ Lâu Môn Tiếng Anh Dễ Dàng Theo ông Grossman, Việt Nam đang cố gắng cân bằng giữa việc hòa bình với Bắc Kinh và việc đẩy lùi sự bành trướng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại Biển Đông. Do đó Việt Nam tránh công bố những mong chờ cụ thể từ quan hệ song phương với Hoa Kỳ. Tin, bài liên quanThời Sự Liệu quan hệ Việt-Mỹ sẽ được nâng cấp sang đối tác chiến lược trong chuyến công du của PTT Harris? Cuộc chiến biên giới 1979 Vì sao báo chí Việt Nam vẫn e dè không nói Trung Quốc xâm lược Việt Nam? Việt Nam thuộc gì từ bài học đắt giá “cuộc chiến biên giới 1979”? Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc nói dối một cách trắng trợn Việt Nam cần thận trọng trong đối đầu Mỹ Trung Quốc Video liên quan Reply 6 0 Chia sẻ Post navigation Related Post You Missed Ngày 28/09/2019, trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, ngoại trưởng Việt Nam đã lên tiếng cảnh báo về tình hình căng thẳng tại Biển Đông. Mặc dù Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm lược với hành động cho tàu công vụ của họ vào hoạt động sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Bãi Tư Chính Biển Đông, diễn văn của ngoại trưởng Việt Nam không hề nói đến Trung Quốc, cũng không nhắc một cách cụ thể đến Bãi Tư Chính và các hành vi phi pháp cụ thể của Trung Quốc. Những hành động xâm lấn của Trung Quốc ngay trong vùng thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông trong ba tháng đã được gợi lên trong nhóm từ những diễn biến phức tạp tại Biển Đông, trong đó có những vụ vi phạm chủ quyền và quyền tài phán tại vùng biển của Việt Nam », còn thủ phạm thì được gọi là các bên liên quan ».Lời lẽ tại Liên Hiệp Quốc của Việt Nam khác xa với tuyên bố ngày 12/09 vừa qua của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, đã nêu đích danh Trung Quốc để kiên quyết phản đối việc nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc tiếp tục hành động vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên vùng biển của mình,được xác định phù hợp với các quy định của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 UNCLOS 1982. »Tuyên bố rất ngoại giao » của ngoại trưởng Việt Nam đã không đáp ứng mong đợi của nhiều chuyên gia ở trong nước cũng như ngoài nước, cho rằng Việt Nam cần phải mạnh dạn nêu bật các hành vi xâm lược của Trung Quốc ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc, nhất là khi Bắc Kinh đã công khai tố cáo ngược lại rằng chính Việt Nam mới là bên đã vi phạm vùng biển của Trung Quốc và đòi phía Việt Nam phải đình chỉ toàn bộ các hoạt động dầu khí tại khu vực Bãi Tư nhiên, trong một bài phân tích đăng ngày 24/09/2019 trên trang mạng của cơ quan Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải AMTI thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS tại Washington, bà Phạm Ngọc Minh Trang, giảng viên Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thỉnh giảng tại Trường Luật Đại Học New York, đã nêu bật một số yếu tố khiến cho việc vạch mặt chỉ tên Trung Quốc trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc không có lợi cho Việt họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là thời cơ lý tưởng, nhưng…Mở đầu bài phân tích, tác giả xác nhận rằng hiện có ý kiến cho rằng Việt Nam nên mạnh dạn phơi bày các hành vi bắt nạt » của Trung Quốc ở Biển Đông ra trước mắt cộng đồng quốc tế. Khóa họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là thời cơ lý nguyên tắc Đại Hội Đồng và Hội Đồng Bảo An là các định chế quan trọng nhất Liên Hiệp Quốc. Các quốc gia thành viên thường đưa ra các vấn đề về hòa bình và an ninh quốc tế ra trước Đại Hội Đồng thay vì Hội Đồng Bảo An, vì lẽ ở đó các quyết định không bị vướng phải quyền phủ quyết của một trong năm thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An là Anh, Mỹ, Pháp, Nga và Trung nghị quyết được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua có thể mang lại những hậu quả chính trị và pháp lý nhất định mà nhiều quốc gia hy vọng có thể giúp giải quyết xung mạnh của Đại Hội Đồng nằm ở chỗ định chế này bao gồm tất cả các quốc gia thành viên, và mọi quốc gia đều có một phiếu bầu bình đẳng với nhau. Một nghị quyết được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua được cho là phản ánh quan điểm của cộng đồng quốc tế, và các quốc gia thường tìm kiếm một nghị quyết như vậy tạo tính chính đáng cho hành động của họ. Nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc có thể ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên về mặt chính trị và do đó ảnh hưởng đến các lựa chọn về chính sách đối ngoại. Chẳng hạn như các khuyến nghị do Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đưa ra đã được Hoa Kỳ công nhận làm nguyên tắc đàm phán với Trung Quốc trong Chiến Tranh Triều quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc cũng có thể mang lại một số hiệu lực pháp lý… Một số học giả thậm chí còn coi các nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là đại diện cho sự đồng thuận toàn cầu, có thể được coi là một yếu tố của luật tập quán quốc tế customary international law. Theo hướng này, nhiều nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã được trích dẫn tại các tòa án quốc tế... Đưa Biển Đông ra trước Đại Hội Đồng LHQ Có thể lợi bất cập hại Theo tác giả bài phân tích, chính vì những tác động tiềm tàng trên đây của một nghị quyết Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam phải cân nhắc khi đem vấn đề Biển Đông ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp cứ vào Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, rõ ràng là Việt Nam hoàn toàn có quyền đưa vấn đề Trung Quốc xâm lấn vùng biển của Việt Nam ra trước Đại Hội Đồng. Điều 11 và 14 của Hiến Chương quy định rằng chức năng chủ chốt của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc bao gồm việc thảo luận và ra khuyến nghị về những vấn đề có tác hại đến an ninh và hòa bình thế giới. Với thực tế là Biển Đông bao gồm các vùng biển quốc tế và quan trọng đối với hệ thống thương mại hàng hải toàn cầu, Việt Nam có thể dễ dàng lập luận rằng tình hình ở Biển Đông đã vượt quá phạm vi tranh chấp giữa một số quốc gia hay thậm chí xung đột khu vực và nên được coi là một vấn đề của hòa bình và an ninh quốc nhiên, hiện có những trở ngại nghiêm trọng khiến Việt Nam khó có thể đạt được một chiến thắng đáng kể nếu bạo dạn đưa vấn đề Biển Đông ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp khăn chủ yếu là làm sao vận động được đại đa số các thành viên Liên Hiệp Quốc ủng hộ mình. Đã đành là các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức đều đã bày tỏ thái độ quan ngại trước các hành động của Trung Quốc, nhưng hậu thuẫn này có thể không đủ để thông qua nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Nhiều nước còn ủng hộ Trung Quốc… Về phía Trung Quốc, số lượng các quốc gia trước đây từng ủng hộ quan điểm của Trung Quốc về Biển Đông không phải là ít. Ảnh hưởng của Trung Quốc trên các nước châu Phi phải được đặc biệt tính đến. Hơn nữa, Bắc Kinh dường như đang trong quá trình đàm phán với Malaysia và Philippines, và hai nước này có thể sẽ không muốn phá hỏng quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Kịch bản này khiến Việt Nam khó thuyết phục các nước khác trong Liên Hiệp Quốc, kể cả các nước láng giềng Biển Đông, nhiệt tình ủng hộ mình tại Đại Hội năm 2014, khi Trung Quốc triển khai giàn khoan HD-981 sâu trong thềm lục địa của Việt Nam, sự kiện này đã chiếm lĩnh tựa lớn trên báo chí quốc tế, và thu hút sự chú ý của toàn thế giới. Lần này, tình thế đã khác đi, hành động của Trung Quốc đã không làm dấy lên những phản ứng quốc tế tương tự. Trong tình hình đó, theo chuyên gia Phạm Ngọc Minh Trang, khả năng Việt Nam thắng lớn tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào thời điểm này khá xa việc một nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về Biển Đông sẽ có một tác động chính trị và pháp lý sâu sắc, Việt Nam nên giữ khả năng này trong danh sách các chiến lược khả thi, nhưng cần thực hiện một số bước sơ bộ để huy động hậu thuẫn quốc tế và tăng cơ hội thành công. Theo tác giả bài viết, một tuyên bố của các nước ASEAN hoặc của toàn khối ASEAN chẳng hạn, bày tỏ quan ngại về tình hình ở Biển Đông, có thể khiến vấn đề được thông suốt hơn tại các cuộc họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Một tuyên bố chung được Việt Nam và các quốc gia có quan tâm đến Biển Đông như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ấn Độ và Nhật Bản cùng soạn thảo và ký kết cũng có thể giúp ích cho Việt cả hai trường hợp trên, Hà Nội phải đóng vai trò tích cực và áp dụng một chiến thuật ngoại giao khéo lại, đưa vấn đề về Biển Đông ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc sẽ không chỉ đòi hỏi một chiến lược tỉ mỉ, mà còn cần đến rất nhiều nỗ lực và thời gian. Hiện tại, khả năng thành công có lẽ không đủ cao để Việt Nam chấp nhận rủi ro. Nhưng với một công cuộc vận động thích hợp, một nghị quyết Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vẫn là một lựa chọn có giá trị cho các nước nhỏ như Việt Nam, đang tìm cách kháng cự lại Trung Quốc ở Biển Đông.

tại sao việt nam luôn bị xâm lược